VIETNAM DESTINATIONS > Destination > Hành Cung Vũ Lâm – Ninh Bình

Du lịch Hành Cung Vũ Lâm - Ninh Bình

Xã Ninh Xuân, Huyện Hoa Lư, Tỉnh Ninh Bình, Việt Nam

Qua hang Đại, dukhách đến cụm tâm linh đặc biệt Hành Cung Vũ Lâm. Đây là nơi các vua nhà Trần lập căn cứ địa để củng cố lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn luyện binh khí và chờ cơ hội phản công chống giặc Nguyên Mông thế kỷ 13. Nằm ngay trong vùng núi thành Nam của kinh đô Hoa Lư xưa.

Các vua đầu nhà Trần lập căn cứ địa ở Vũ Lâm để củng cố lực lượng, phản công giải phóng Đại Việt trong cuộc kháng chiến đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai. Nơi đây còn gắn với sự kiện các vua Trần xuất gia tu hành, mở mang phật giáo

hành cung vũ lâm tuyến 2 tràng anHành cung Vũ Lâm

Vua Trần Thái Tông là người ưa Thần Phật, sùng Tiên Thánh, thích đi vân du để tìm vẻ đẹp của giang sơn đất nước, tìm nơi tĩnh lặng để tu thiền. Trên con đường phi mã thiên lý Bắc – Nam, khi đi qua đất Tràng An – Ninh Bình, nhìn về phía Tây, ngài thấy dải Phi Vân Sơn hùng vĩ, phía dưới là sông ngòi uốn khúc, phía trong lại có các hang xuyên thủy nối liền.

Say đắm cảnh nước lạ, núi đẹp, ngài đã sai người dựng am để tu hành, mở đầu cho việc xây dựng Hành Cung Vũ Lâm. Cũng ngay thời điểm đó, Thượng Hoàng Trần Thái Tông đã nhận ra địa thế hiểm yếu của khu vực rừng núi Ninh Bình với hệ thống sông ngòi dày đặc liên thông với khu vực hành cung Thiên Trường – Nam Định.

 

Hơn thế, với hệ thống núi đá vôi dày đặc, rừng cây rậm rạp dễ phòng thủ, khó tiến công, là một nơi đắc địa để xây dựng căn cứ phòng thủ lâu dài, có thể rút quân từ Thăng Long và Thiên Trường về đây theo đường sông trong trường hợp bị truy kích. Địa thế hiểm trở với sông nước có thể dễ dàng khóa chân vó ngựa quân Nguyên Mông vốn chỉ quen chinh chiến trên những vùng thảo nguyên rộng lớn.

Với tầm nhìn ấy của Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông, Hành Cung Vũ Lâm đã không chỉ là nơi tu thiền mà còn là căn cứ địa vững chắc của quân dân thời Trần, có thể tiến hành chiến đấu trong thời gian dài.

Sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258) vua Trần Thái Tông 40 tuổi, đã nhường ngôi cho con và trở về vùng núi Trường Yên lập am thái tử để tu hành, mở đầu cho việc xây dựng hành cung Vũ Lâm. Vua Trần Thái Tông (1255 – 1258) đã dựng một am nhỏ trên vạt đất cao gần Hang Cả của khu danh lam thắng cảnh (Tam Cốc) làm nơi tu hành.

Nơi đây vẫn còn di tích một khu đất rộng khoảng hơn một sào, cao hơn mặt ruộng được gọi là Vườn Am. Nhà vua đã cho dựng am Thái Vi ở đây, chiêu mộ dân lưu tán đến để khai hoang lập ấp, mở mang đường giao thông, tôn tạo những nơi xung yếu, chuẩn bị sẵn sàng với tình thế khẩn trương, một khi chiến tranh chống quân xâm lược lại nổ ra. Nhiều cuộc họp quan trọng của triều đình, dưới sự chủ trì của vua Trần Thái Tông đã được tổ chức ở đây. Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai năm 1285, khu Hành Cung Vũ Lâm trở thành căn cứ địa vững chắc của quân dân nhà Trần.

Ngày 3 tháng 5 năm Ất Dậu (7-5-1285), hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã đánh tan một bộ phận quân Mông – Nguyên ở đây, “chém đầu giặc không kể xiết”. Trận đánh quân Mông – Nguyên diễn ra tại thung lũng đá vôi Thiện Dưỡng. Ở giữa thung lũng đá vôi Thiện Dưỡng nói trên, có cánh đồng “Cửa Mả” và gần đó có thung lũng “Mồ” vì có nhiều mồ mả nên nhân dân địa phương gọi thung lũng này là “đất chiến địa”. Trận đánh quân Mông -Nguyên ở phủ Trường Yên vào ngày 7-5-1285 đã góp phần nhanh chóng quét sạch quân Mông – Nguyên ra khỏi đất Đại Việt một lần nữa cho thấy Trường Yên không chỉ là đất đế đô mà còn là đất chiến địa.

Di tích Hành Cung Vũ Lâm hiện nay phân bố rộng khắp trong 4 xã: Ninh Hải, Ninh Thắng, Ninh Xuân và Ninh Vân huyện Hoa Lư, thuộc khu vực phía nam của quần thể danh thắng Tràng An. Cũng giống như cố đô Hoa Lư, Hành Cung Vũ Lâm gồm cả vùng núi non hang động Tràng An được tô điểm thêm bằng những di tích lịch sử. Trải ra trên một địa bàn khá rộng, khu di tích Hành Cung Vũ Lâm bao gồm nhiều di tích lịch sử như: Cửa Quan, Hành Cung, Cống Rồng, Tuân Cáo, Vườn Kho, v.v…

Ngày nay, những tên đất, tên làng ở vùng đất Văn Lâm còn in đậm dấu ấn lịch sử thời ấy. Đó là cánh đồng Trường Thi nơi tập trận, Bến Thánh là bến thuyền tập kết thủy quân, làng Thiện Trạo (chèo thuyền giỏi), làng Hạ Trạo (gác chèo) ở xã Ninh Thắng là nơi gác chèo khi vào đến Hành cung. Đó là làng Tuân Cáo, nơi các quan vào trình báo nhà vua; làng Hành Cung, là nơi ở của Vua. Những địa điểm như Thái Vi – Thung Nham (xã Ninh Hải); Hành Cung – Khả Lương – Tuân Cáo – Hạ Trạo (xã Ninh Thắng) và Khê Đầu, Bộ đầu, Hệ Dưỡng (xã Ninh Vân) đều là những địa danh có liên quan trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên năm 1285.

Điểm tham quan đầu tiên trong cụm di tích Hành Cung Vũ Lâm là đền thờ các vị vua Trần ở thế kỷ 13, một trong những vương triều hùng mạnh và thịnh trị của chế độ phong kiến Việt Nam. Với 175 năm tồn tại và phát triển, vương triều Trần đã có những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nhưng nổi bật nhất là chiến công hiển hách ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông. Đền thờ 6 vị vua nhà Trần, là những vị đã từng có dấu ấn, từng lui binh về đây và từng về đây tu hành: 

Vua Trần Thái Tông

(tức Trần Cảnh) sinh năm 1218, mất năm 1277, làm vua lúc 8 tuổi do Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi năm 1225, đến năm 1258 ở ngôi 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm, thọ 59 tuổi. Trần Thái Tông là ông vua đầu tiên của nhà Trần có công trong việc ổn định và đưa xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn thịnh vượng sau thời kỳ nhà Lý. Ông cũng là một ông vua có bản lĩnh, nghiên cứu cả Nho học và Phật học, có tài thơ văn. Đặc biệt ông đã đặt vấn đề xây dựng chế độ thi cử, góp phần mở mang việc học ở Việt Nam. Ông là người lãnh đạo thắng lợi cuộc đọ sức thứ nhất với quân xâm lược Nguyên – Mông năm 1258.

Vua Trần Thánh Tông

(tức Trần Hoảng) sinh năm 1240 mất năm 1290 là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 cho đến khi qua đời. Ông là một vị Hoàng đế tài năng, có công rất lớn trong công cuộc xây dựng Đại Việt trở nên hưng thịnh. Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt thái bình và quân Nguyên Mông tạm thời không sang xâm lược nữa, tạo điều kiện phát triển lực lượng hùng mạnh. Ông nổi tiếng là vị Hoàng đế có lòng thương dân và rất giỏi về thơ văn, cũng rất sùng Phật giáo. Trong thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã cùng với con trai là Trần Nhân Tông lãnh đạo quân sĩ giành chiến thắng trong hai cuộc chiến cuối cùng chống lại quân đội nhà Nguyên. Năm 1282 – 1283, khi quân Nguyên Mông kéo 50 vạn đại binh sang định làm cỏ nước Nam lần thứ 2 thì cả vùng Vũ Lâm, Hệ Dưỡng, Tam Cốc, Bích Động, Tràng An đã được hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông sử dụng làm căn cứ phía tây nam đất nước, cùng với căn cứ Vạn Kiếp tại khu đông bắc do Trần Hưng Đạo chỉ huy là hai căn cứ kháng chiến lớn nhất trong công cuộc chống quân xâm lược Mông – Nguyên.

Vua Trần Nhân Tông

(tức Trần Khâm) là đời vua thứ 3 của triều đại nhà Trần. Ông sinh năm 1258, và mất năm 1308, thọ 42 tuổi. Năm 21 tuổi, ông được vua cha truyền ngôi báu và đã trị vì 15 năm (1278 – 1293). Vì là bậc minh quân có biệt tài kinh bang tế thế, ông có công lớn trong việc lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi lần 2 và lần 3, xây dựng đất nước phồn vinh. Bên cạnh là một vị hoàng đế tài năng, ông còn nổi tiếng là một nhà thơ xuất sắc. Tuổi niên thiếu, Trần Khâm (tức vua Trần Nhân Tông sau này) từng theo ông nội về Vũ Lâm và say sưa nghe ông kể chuyện về cuộc đời đức Phật. Năm 1282 – 1283, trước khi quân Nguyên Mông kéo 50 vạn đại binh sang định làm cỏ nước Nam lần thứ 2 thì vua Trần Nhân Tông đã cùng với các tướng lĩnh triều đình về lại Hành cung Vũ Lâm để bàn kế giữ nước, lập các phòng tuyến chặn giặc. Vào tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tại hành cung Vũ Lâm (Hoa Lư – Ninh Bình), đến tháng 7 năm Kỷ Hợi (1299), Thượng hoàng lại rời hành cung Vũ Lâm về Yên Tử – tỉnh Quảng Ninh tu hành, thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng.

Vua Trần Anh Tông

(tức Trần Thuyên) sinh năm 1276 mất năm 1320, là vị hoàng đế thứ tư. Ông ở ngôi 21 năm (1293 – 1314) và làm Thái thượng hoàng trong 6 năm. Anh Tông là một vị minh quân, việc học hành mở mang rộng rãi. Bên cạnh là một chính trị gia xuất sắc, ông còn là một nhà thơ giỏi. Thơ ông giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt trong ngôn từ.

Vua Trần Minh Tông 

(tức Trần Mạnh) sinh năm 1300, mất năm 1357, là vị hoàng đế thứ năm của nhà Trần. Ông ở ngôi 15 năm (1314 – 1329) và làm Thái thượng hoàng 28 năm. Tuy nối ngôi còn trẻ, nhưng vốn thông minh, tài trí, sự hưng thịnh của đất nước tiếp tục được mở mang, làm rạng rỡ công nghiệp của nhà Trần, là bậc quân chủ tài giỏi. Vì biết tôn trọng kẻ sĩ, nên dưới trướng mình có nhiều những hiền thần như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An phụ giúp, thời cường thịnh trải suốt khi ông qua đời vào năm 1357. Cũng như các đời vua trước, Minh Tông hay sáng tác thơ, văn.

Vua Trần Nghệ Tông 

(tức Nghệ Hoàng), sinh năm 1321, mất năm 1394, là vị hoàng đế thứ 8. Ông ở ngôi 2 năm (1370 – 1372), ở ngôi Thái thượng hoàng hơn 20 năm (1372 – 1394). Trần Nghệ Tông là vị hoàng đế có quyền lực tối cao cuối cùng của hoàng tộc họ Trần, công lao lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục lại cơ đồ cho triều đại nhà Trần đã mang lại danh tiếng một đời cho ông. Tuy nhiên, ông cũng chịu trách nhiệm chính cho việc Hoàng vị họ Trần rơi vào tay của ngoại thích Hồ Quý Ly, em họ bên ngoại của ông, do lúc sinh thời ông đã dung túng Quý Ly, giết hại tôn thất họ Trần. Ít lâu sau khi lên ngôi, Trần Nghệ Tông lên làm Thái thượng hoàng vào năm 1372, nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông.

Phía bên trái đền thờ các vị vua Trần là tượng thờ linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung. Bà là con ông Trần Lý ở thôn Lưu Giang, nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình. Thái tử Sảm, con vua Lý Cao Tông, mới 15 tuổi, chạy loạn về đây đã lấy Trần Thị Dung. Trần Lý đã mộ quân các xã xung quanh phò vua Lý Cao Tông về chiếm lại Thăng Long. Cuối năm 1209, quân họ Trần rước vua Lý Cao Tông về kinh. Năm 1210 vua Lý Cao Tông qua đời. Năm 1211 Thái tử Sảm 17 tuổi lên ngôi là vua Lý Huệ Tông, lập bà Trần Thị Dung làm nguyên phi. Năm 1216 bà Trần Thị Dung sinh con gái đầu lòng là công chúa Thuận Thiên. Hai năm sau ( 1218) bà sinh con gái thứ 2 là công chúa Chiêu Thánh. Bà Trần Thị Dung được tôn là Hoàng Hậu. Năm 1226 vua Lý Huệ Tông mất ở chùa Chân Giáo do Trần Thủ Độ ép tử. Thời gian sau bà lấy Thái sư Trần Thủ Độ. Bà có công lao lớn trong việc giải hoà Trần Liễu với Trần Cảnh. (Trần Liễu và Trần Cảnh là con của Trần Thừa. Trần Thừa lại là anh ruột của bà Trần Thị Dung. Trần Liễu lấy công chúa Thuận Thiên. Trần Cảnh lấy công chúa Chiêu Thánh).

Hơn 10 năm sống bên Trần Cảnh (vua Trần Thái Tông), Hoàng hậu Chiêu Thánh vẫn không sinh nở gì, nên Trần Thủ Độ ép vua Trần Thái Tông bỏ Hoàng hậu Chiêu Thánh, lấy Thuận Thiên làm hoàng hậu vì Thuận Thiên lúc đó đang có mang. Đó là năm Đinh Dậu (1237) vì vậy, Trần Liễu (là bố Trần Hưng Đạo) chống lại vua Trần Thái Tông và làm loạn. Nhờ có bà Trần Thị Dung, Trần Liễu và Trần Cảnh đã giải được mối bất hoà. Bà giữ cho cơ nghiệp nhà Trần yên ổn. Mùa xuân năm 1259 (Kỷ Mùi) bà Trần Thị Dung qua đời. Vua Trần đã phong bà là “Linh Từ Quốc Mẫu”. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư ca ngợi bà : “Giúp đỡ nội trị cho nhà Trần, Linh Từ có nhiều công to… thế mới biết trời sinh ra Linh Từ cốt để mở nhà Trần”. Tương truyền khi theo triều đình nhà Trần vào Vũ Lâm lập Hành Cung, bà đã truyền dạy cho nhân dân thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, nghề thêu ren. Bà được nhân dân ở đây suy tôn là bà tổ nghề thêu.

Phía bên phải đền thờ tướng Trần Quang Khải, ông thuộc dòng dõi quý tộc của nhà Trần. Ông sinh năm Tân Sửu 1241 mất năm Giáp Ngọ 1294, thọ 53 tuổi. Danh tướng, thi gia đời Trần, con thứ ba vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), em ruột Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) biệt hiệu là Lạc Đạo tiên sinh, quê làng Tức Mạc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định. Ông học nhiều, biết rộng, có tài văn chương, giỏi việc quân sự. Ngay từ trẻ đã được phong tước Chiêu Minh vương, năm 1371 được giữ chức Tướng quốc Thái úy đời vua Trần Thánh Tông, rồi thăng đến Thái sư đời vua Trần Nhân Tông.

Trong cuộc đánh đuổi quân Nguyên – Mông xâm lược, ông cùng Trần Quốc Tuấn và các chiến hữu lập được chiến tích vẻ vang. Bài thơ chiến thắng khải hoàn Tụng Giá Hoàng Kinh Sư là một bản anh hùng ca của dân tộc:

Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu nỗ lực,

Vạn cổ thử giang san.

Dịch:

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thần.

Thái bình nên gắng sức,

Non nước ấy nghìn thu.

Điểm tham quan thứ hai trong cụm di tích Hành cung Vũ Lâm là đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – một vị tướng lừng danh của nhà Trần cũng như lịch sử nước ta. Trần Hưng Đạo (1228-1300) là một danh nhân kiệt xuất của dân tộc đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Trong đời mình, ông đã trải qua một lần gia biến, 3 lần nạn nước.

Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thùy phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 – 1288), ông lại được đề bạt làm tiết chế thống lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng. Ông là người đã hiến kế “vườn không nhà trống”, lui binh từ kinh thành Thăng Long về Hành cung Vũ Lâm tránh cho nhà Trần những tổn thất lớn, và tạo thời cơ bẻ gãy lực lượng của địch. Ông là một bậc tướng gồm đủ tài và đức, không những là một công thần của nhà Trần mà còn là một anh hùng lớn của dân tộc. Trần Hưng Đạo còn là một trong mười vị tướng tài ba của thế giới tại bảo tàng lịch sử hoàng gia Anh in trong cuốn “Các vị danh nhân của thế giới”.

Sau khi Trần Hưng Đạo mất, trong tâm thức người Việt, ông từ một nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc đã hiển thánh, trở thành một vị nhân thần tối linh. Trải qua hơn 700 năm, truyền thuyết và nghi lễ, lễ hội thờ phụng Đức Thánh Trần đã hình thành khắp nơi trên đất Việt, tín ngưỡng Đức Thánh Trần đã được trao truyền từ đời này sang đời khác, được cộng đồng trân trọng, bảo tồn; có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh người Việt. Xung quanh Đức Thánh Trần được bao trùm không chỉ là các di sản văn hóa hiện hữu mà là cả một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đậm đặc, đa sắc màu.

Câu ca “Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ” từ lâu đã ăn sâu trong tâm thức người Việt. Cơ sở đầu tiên dẫn đến sự hội nhập, đan cài này là về loại hình cả hai đều là sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa (thờ tổ tiên, người có công) với những ảnh hưởng của đạo giáo dân gian. Ngoài ra, trong tâm thức dân gian người Việt, Đức Thánh Trần hay Thánh Mẫu Liễu Hạnh đều là các vị thần thánh được Ngọc Hoàng cử xuống trần gian để tiêu trừ ma tà, dịch bệnh, cứu giúp chúng sinh, bảo vệ giang sơn xã tắc.

Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Đức Thánh Trần cùng có giá trị nhiều mặt về nhận thức thế giới và nhân sinh, về củng cố và tăng cường chủ nghĩa yêu nước, về văn hóa nghệ thuật thông qua tục nhập đồng các vị thánh, qua lễ hội và phong tục, qua kiến trúc và điêu khắc.

Phạm Ngũ Lão (1255–1320)

là vị tướng nhà Trần. Ông là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Là môn khách của Trần Hưng Đạo, ông được Trần Hưng Đạo gả con gái là quận chúa Anh Nguyên. Trong hai cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285 – 1288) ông lập được nhiều chiến công. Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành vào năm 1312. Không chỉ có tài về quân sự, mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước.

Yết Kiêu (1242-1301)

là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Ông có tài bơi lặn giống như một loài thuỷ tộc. Trong các cuộc  chiến chống quân Nguyên thế kỷ XIII, ông chuyên dùng tài bơi lặn của mình để xâm nhập sâu vào đội hình địch để đục thủng đánh chìm các chiến thuyền, mang lại nhiều chiến công vang dội đóng góp lớn cho các cuộc  chiến. Cũng bằng tài bơi lặn của mình mà ông đã nhiều lần xông pha nơi trận tiền, giữa đội hình địch để cứu nguy và bảo vệ cho chủ tướng. Yết Kiêu rất được Hưng đạo Đại vương tin yêu và trọng dụng. Ông được vua Trần phong tặng: “Trần triều Hữu tướng Đệ nhất bộ đô soái thủy quân, Tước hầu”.

Trương Hán Siêu (?-1354)

là một vị quan, một danh nhân văn hóa đời Trần, với học thức sâu rộng, được các vua Trần luôn tôn gọi là Thầy chứ không gọi tên húy. Ông quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình). Theo chính sử, Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Ông lập được nhiều công trạng trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba.

Trong ngôi đền, chùa Việt, tượng thần của Đạo giáo hiện diện khá phổ biến, tiêu biểu là bộ ba Ngọc Hoàng – Nam Tào – Bắc Đẩu, hay bộ đôi Nam Tào – Bắc Đẩu. Do đó, trong đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, phía bên trái và bên phải có thờ 2 vị Nam Tào và Bắc Đẩu. Bắc Đẩu với dung mạo nghiêm khắc coi việc “Tử”, Nam Tào với dung mạo hiền hòa coi việc “Sanh” ở thế gian, Nam Tào ở bên tả tức là phương Nam, Bắc đẩu ở bên hữu tức là phương Bắc. Hai thần Nam Tào và Bắc Đẩu ngoài việc trông nom loài người, từ lúc sinh cho đến khi chết, còn qui định số mạng giàu nghèo, sang hèn, lành dữ của mỗi người, và sau khi chết phải đầu thai kiếp gì. Số kiếp các loài vật cũng do hai vị thần này ghi chép.

Điểm thứ ba trong hành trình tham quan Hành cung Vũ Lâm của quý khách là chùa Áng La, được xây trên một tòa sen khổng lồ, có kiến trúc hiện đại, vật liệu xây dựng chủ yếu là bằng đá nguyên khối và gỗ quý. Trước mặt chùa có núi hình Phượng Hoàng, đặc biệt phía sau có núi hình tượng Phật A Di Đà ngồi thiền hướng về phía Tây cho quốc thái dân an, che chở an lành cho người dân.

Trong kháng chiến chống giặc Nguyên Mông, vua Trần đã cho lui binh về đây trong thời gian ngắn, với nền tảng là một triều đại rất sùng đạo Phật nên đã cho xây dựng ngôi chùa Khai Phúc này. Hiện nay doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường đã cho xây dựng lại trên nền móng cũ. Thường thường vào đền chùa sẽ theo quy tắc vào phải ra trái là đi theo chiều tịnh tiến từ dương sang âm để làm tịnh tiến thiện căn. Quý khách sẽ làm lễ từ tượng thần khuyến thiện, ban thờ Đức Ông trước, vì Đức Ông chính là người trông coi ngôi chùa, sau đó đến chính điên Tam Bảo, Đức Thánh Hiền. Vòng ngoài hai bên là bức tượng của 2 vị thần khuyến thiện và trừng ác. Đây cũng là nơi xuất gia tu hành đầu tiên của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, thời gian vào khoảng tháng 7 năm Giáp Ngọ 1294, trước khi ngài lên Yên Tử lập ra Thiền phái Trúc Lâm, dòng Thiền mang đậm bản sắc Việt Nam.

Điểm tham quan thứ tư là Điện Thờ Mẫu (Tam Tòa Thánh Mẫu). Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ Đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ.

Bên trái phía ngoài điện thờ Mẫu sẽ thấy 11 tấm bia đặt trên lưng rùa để ghi lại công lao to lớn của các anh hùng, tử sĩ đã có công lao lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, vì rùa là một loài động vật lưỡng cư nhịn ăn rất tốt, tượng trưng cho sự trường tồn, nên rùa hay được lựa chọn để cõng hạc và cõng bia.

Điểm tham quan cuối cùng thứ năm là đền thờ công đồng các tướng lĩnh triều Đinh năm xưa. Đây cũng là ngôi đền nhằm tưởng nhớ công lao to lớn cho sự hy sinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của các anh hùng tướng sĩ. Do xưa kia phương tiện đi lại chủ yếu của các tướng lĩnh là ngựa nên trong đền hai bên có ngựa đỏ và ngựa trắng, tượng trưng cho âm dương, màu đỏ là dương và màu trắng là âm.

Chèo thuyền Kayak tại Tràng An

Chèo thuyền Kayak tại Tràng An sẽ đưa du khách trải nghiệm một trong hai tuyến hành trình.

Tuyến thứ nhất xuất phát từ Bến thuyền, đi qua Đền Trình, tới Cổng Tam Quan, Cửa hang Tối, Cửa hang Quy Hậu, Núi Ngọc.

Ở tuyến này, du khách có check-in trên thuyền, gốc cây bàng dưới cổng Tam Quan.

Vào thắp hương trong đền Trình. Chiều dài của tuyến này cả đi và về vào khoảng 8km.

Tuyến thứ hai xuất phát từ Bến thuyền đi đến Bến Đảo Kong tới Thủy Đỉnh, Hành Cung Vũ Lâm.

Ở tuyến này, du khách có check-in trên thuyền, Thủy đình và tìm hiểu lịch sử Hành Cung Vũ Lâm…

Chiều dài của tuyến này cả đi và về vào khoảng 5km.

  • Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Ninh Bình

Bảng giá chèo thuyền Kayak Tràng An

Loại thuyền/giờ Giá thuê
VÉ THUYỀN KAYAK ĐƠN 2 GIỜ : 250.000 đ/THUYỀN
VÉ THUYỀN KAYAK ĐƠN 3 GIỜ: 300.000 đ/THUYỀN
VÉ THUYỀN KAYAK ĐÔI 2 GIỜ: 350.000 đ/THUYỀN
VÉ THUYỀN KAYAK ĐÔI 3 GIỜ: 400.000 đ/THUYỀN

 

vietnam-destinations.com | Khám phá Việt Nam

Nguồn: Sưu tầm internet.