Truyền ngôn rằng đền “Quốc Mẫu từ” là nơi an táng di hài Tỉnh Nương Hoàng hậu. Bản thần tích niên đại Vĩnh Hựu ngũ niên (1739) còn lưu tại đền ghi rõ: Thánh Mẫu là Đinh Thị Tỉnh, cha là Đinh Công Đoan, mẹ là bà Đỗ Thị Lan Hoa…
Theo thần tích Đinh Tỉnh Nương sinh ra và lớn lên trên quê mẹ xã Phù Lưu, huyện Tây Lan (nay là thôn Trung, làng Phù Lưu, xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng). Trước khi kết thân với bà Đỗ Thị Lan Hoa thân phụ của Tỉnh Nương đã có “bà cả” là Đào Thị Rạng và sinh được 4 người con trai, nhưng “bà cả” chẳng may mắc bệnh hiểm nghèo mà chết. Bà Đỗ Thị Lan Hoa là vợ kế của ông Đinh Công Đoan.
Trong chuyến điền dã mới đây về làng Phù Lưu tìm hiểu dấu ấn nhà Đinh trên đất Cổ Lan, nhóm nghiên cứu chúng tôi được các bậc cao niên trong làng truyền ngôn lại nhiều sự tích ngôi đền và những tồn nghi về danh phận và mộ chí của Hoàng hậu triều Đinh, những nơi thờ tự 4 vị công thần triều Đinh là anh trai Hoàng hậu Tỉnh Nương cùng một số truyền ngôn khác liên quan đến Đinh triều Hoàng hậu… Làng Phù Lưu (còn gọi là làng Phù hay làng Tàu), thời nhà Trần là trung tâm huyện lỵ Cổ Lan sau thời nhà Trần đổi thành huyện Tây Quan cho đến thế kỷ XIX chuyển thành tổng Đồng Vi, huyện Đông Quan và nay là huyện Đông Hưng. Làng Phù Lưu chia thành nhiều thôn, hiện ở thôn Bắc có miếu thờ 4 vị tướng họ Đinh (là con trai tướng công Đinh Công Đoan và là anh của Hoàng hậu Tỉnh Nương). Tướng công Đinh Công Đoan vốn là thuộc tướng triều Ngô Vương Quyền (938) nhưng khi nhà Ngô suy vi, ông ra phò giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Theo sử cũ, tướng công Đinh Công Đoan là người văn võ toàn tài, đi theo Ngô Vương Quyền lập được nhiều công lao và được cử về làm tri phủ Cổ Lan (Tây Quan). Chuyện sinh hạ được người con gái sắc nước nghiêng thành khiến Đinh Tiên Hoàng “ngẩn người” quyết lập thành Hoàng hậu Đinh Tỉnh Nương được ghi chép trong ngọc phả, thần tích của đền như sau: “Một đêm phu nhân Đỗ Thị Lan Hoa nằm mộng thấy nhặt được chiếc gương vàng, sau giấc mộng ấy phu nhân có thai. Ngày 3 tháng Giêng năm Ất Mão (955) bỗng thấy hương thơm đầy nhà, khí thụy rực rỡ, phu nhân trở dạ sinh hạ một người con gái, long nhan mắt phượng, mặt như bích phấn. Lên 5 tuổi đã biết âm luật nhạc, văn tự chưa giáo hóa đã biết quy mô, quan phủ cho đi học 5 – 6 năm thì văn chương đã xuyến triệt, võ bị tinh thông, cưỡi ngựa bắn tên thế gian khó địch nổi. Thời gian ấy quan tri phủ Đinh Công Đoan và phu nhân bị ác phong cảm, cùng chết vào mồng 10 tháng 10. Năm anh em dâng biểu tâu vua, nhà vua cho 30 hốt vàng để làm lễ khâm liệm đưa về quê an táng”. Sau khi Ngô Vương Quyền mất, 12 sứ quân nổi loạn. Tại làng Phù Lưu năm người con của Đinh Công Đoan nối chí cha đã đứng ra chiêu tập binh mã, xây dựng lực lượng tại Phù Lưu, dựng 3 đồn lũy, lập 1 đồn ở trang Cổ Dũng (nay là xã Đông La, huyện Đông Hưng) và một đồn ở khu Giống để chống cự với các sứ quân. Sử cũ chép: Gặp loạn 12 sứ quân, Tỉnh Nương đã cùng các anh trai tham gia lập đồn trại, chiêu dụ nhân tài đánh dẹp. Một lần thị sát vùng Kỳ Bố, Đinh Tiên Hoàng xa giá đến vùng đất Cổ Lan thấy Tỉnh Nương nhan sắc tuyệt trần bèn lập làm Trinh Minh Hoàng hậu, tước hiệu Đệ Nhị Cung Phi, vua giao cho bà cai quản nội cung… Ngọc phả cũng ghi rằng: “Cung Phi có thai, sinh cho Đinh Tiên Hoàng một Hoàng tử, sau khi sinh được trăm ngày thì Cung phi không bệnh mà chết vào ngày 12 tháng 10”. Vua bèn gia phong là: “Cung nương như đậu Tỉnh Nương đại thần đoan trang Trinh thục cẩn tiết nhàn uyển Hoàng hậu”.
Đền Thánh Mẫu làng Phù Lưu là một công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc gỗ đã được trùng tu vào cuối thế kỷ thứ XIX. Theo tài liệu điền dã và khảo tả, đền quay mặt hướng Đông Nam gồm đền và tào xá, tắc môn, hoành mã, giếng nước… Kiến trúc đền kiểu chữ Đinh gồm 2 tòa, 7 gian, 5 gian tào xá. Tổng thể công trình được khép kín bởi tào xá, tường bao viên, hoành mã tắc môn, có giếng nước trước cửa đền làm cho ngôi đền toát lên vẻ uy linh, thâm tĩnh của một nơi thờ bậc “Mẫu nghi thiên hạ” và kiến trúc của ngôi đền cũng là một thắng cảnh “độc nhất vô nhị” của phủ lỵ Cổ Lan xưa và nay là huyện Đông Hưng. Cũng theo khảo tả, tòa đại bái gồm 5 gian lợp ngói vảy rồng, hệ thống cột đá xẻ vuông đứng trên chân tảng đá, đội đấu gỗ, đỡ bẩy hiên. Cột đá được soi chỉ chìm, chạm khắc các họa tiết cúc dây và nhấn câu đối chữ Hán. Ngưỡng bao gỗ, soi chỉ kép, chạm trổ độc đáo. Thềm lát đá phiến, dật tam cấp, có mở cửa đại, 2 cửa sổ. Tòa đại bái dài 9m, rộng 4m, cao 4m, hồi văn năm đấu, lợp ngói mũi, vì kèo kiểu chồng cốn đấu sen. Đặc biệt hệ thống đầu dư đỡ bẩy hiên bằng gỗ được chạm trổ công phu, một con nghê đứng trên đầu, ghé vai đỡ bẩy. Nét chạm uyển chuyển, kênh bong rất đẹp. Trên diện tích 3 khoảng phân chia đều của Y môn, chính giữa chạm nổi một con phượng, tư thế sải cánh, đạp mây. Hai bên là hai con vật được cách điệu đầu rồng, thân là cành hoa lá. Trong hậu cung có hình tượng con rồng được thể hiện trên mảng cốn, bức đại tự dài 2m, rộng 1m có khắc nổi 3 chữ: “Quốc Mẫu từ”. Trong khám từ có 3 cỗ ngai, 3 bài vị thời Lê ở thế kỷ XVII khá lớn và rất đẹp, là ngai thờ vọng cha mẹ “Mẫu” là Đinh Công Đoan và Đỗ Thị Lan Hoa cùng ngai thờ Hoàng hậu Tỉnh Nương. Trong hậu cung đền còn lưu giữ tượng gỗ thị nữ chầu, tượng Hoàng hậu ngự trên ngai và khám thờ chạm trổ tinh xảo. Những tồn nghi lưu truyền trong dân gian cho rằng mộ chí của Hoàng hậu Đinh triều Tỉnh Nương Hoàng hậu được đặt trong hậu cung ngôi đền. Các sắc phong thần và câu đối tại đền đều có nội dung: “Phù Lưu xã, phụng sự Đinh triều hoàng hậu”. Các triều đại phong kiến sau này cũng có sắc phong “Cung nương như đậu Tỉnh Nương Đại thần đoan trang Trinh thục cẩn tiết nhàn uyển Hoàng Thái hậu”.
Ngôi “Quốc Mẫu từ” còn lưu giữ nhiều sắc phong thời Nguyễn và cuốn thần tích chữ Hán do Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn đã được sao chép vào năm 1739. Tuy còn những tồn nghi truyền ngôn về nơi an nghỉ cũng như danh phận Hoàng triều của Hoàng hậu Tỉnh Nương (Đinh Tỉnh Nương) hay Trinh Minh Hoàng hậu hoặc Trinh Thục Hoàng hậu triều Đinh chưa được làm sáng tỏ nhưng cứ vào ngày sinh và ngày mất của Hoàng hậu Tỉnh Nương triều Đinh hàng năm nhân dân làng Phù Lưu vẫn tổ chức lễ hội long trọng để tưởng nhớ tới 5 anh em họ Đinh đã có nhiều công lao trong sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước của vua Đinh Tiên Hoàng để lại dấu ấn không phai mờ trên đất Thái Bình.
Nguồn: Sưu tầm internet.