VIETNAM DESTINATIONS > Destination > Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam

Du lịch Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam

BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM Ở ĐÂU?

 Thái Nguyên Phương pháp Thủ đô thủ đô hà nội khoảng 80km, Bảo tàng Văn hóa những dân tộc Việt Nam tọa lạc ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên, được xây dựng năm 1960 với tên gọi khởi đầu là Bảo tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 5 Bảo tàng quốc gia Việt Nam. 

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam1


GIỚI THIỆU VỀ BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN

REVIEW BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAMTHÁI NGUYÊN CHI TIẾT A-Z 2021

Nội Dung [Ẩn]

  •  Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam ở đâu?
  •  Giới thiệu về Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Thái Nguyên
  •  Lịch Sử Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Thái Nguyên
  •  Tham quan Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Thái Nguyên
  •  Clip review Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam Thái Nguyên

BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM Ở ĐÂU?

 Thái Nguyên Phương pháp Thủ đô thủ đô hà nội khoảng 80km, Bảo tàng Văn hóa những dân tộc Việt Nam tọa lạc ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên, được xây dựng năm 1960 với tên gọi khởi đầu là Bảo tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 5 Bảo tàng quốc gia Việt Nam. 

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam1


GIỚI THIỆU VỀ BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN

Được xây dựng trên một khuôn viên rộng đến 40.000m² cạnh dòng sông Cầu thơ mộng, tại điểm giao nhau của những đường Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn và Phương pháp mạng tháng Tám, Bảo tàng Văn hóa những dân tộc Việt Nam là một công trình kiến trúc quy mô, tầm cỡ mang nhiều tính nghệ thuật, đã đạt phần thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt 1 năm 2006.

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam ngày càng phát triển. 50 năm qua Bảo tàng đã tiến hành hàng trăm cuộc nghiên giúp sưu tầm, trên địa bàn toàn nước, góp phần nâng tổng số hiện vật trong kho cơ sở lên gần 30.000 tài liệu hiện vật có giá trị. Đó đấy là cơ sở quan trọng để Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam hoàn thiện hệ thống trưng bày trong nhà, ngoài trời, phục vụ tốt công chúng tham quan trong nước và quốc tế.

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam2

Hiện nay, hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam được xây dựng trên cơ sở những nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn hoá vùng, giới thiệu bản sắc văn hoá 54 tộc người gắn với phong cảnh môi sinh từng vùng cư trú. Bao gồm một gian long trọng tại sảnh A nhà Bảo tàng và hệ thống 5 phòng trưng bày.

Gian long trọng của Bảo tàng là nơi đón khách. Tại đây giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam. Ở tiền sảnh to của Bảo tàng, chúng ta được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, thay mặt cho ba miền Bắc – Trung – Nam. Bức tượng thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Bác với những cháu thiếu nhi ba miền, đồng thời thể hiện chính sách thống nhất, đa dạng và đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

LỊCH SỬ BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN

Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam được xây dựng năm 1960. Thời kỳ đầu mang tên Bảo tàng Việt Bắc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên giúp khoa học và giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá, lịch sử đấu tranh cách thức mạng của nhân dân những dân tộc Việt Bắc.Năm 1976, Khu tự trị Việt Bắc giải thể, Bảo tàng Việt Bắc chuyển giao về Bộ Văn hoá – Thông tin quản trị. Từ đây, Bảo tàng chuyển hướng nội dung hoạt động từ Bảo tàng tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành về Văn hoá dân tộc. Ngày 31/3/1990 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa đã phê duyệt đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 7 Bảo tàng quốc gia Việt Nam.

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam3


THAM QUAN BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN

Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu to được tạc bằng gỗ mô phỏng những lễ hội tiêu biểu truyền thống những tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ.

Phòng số 1: Trưng bày và giới thiệu về văn hoá những tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và những nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.Việt Mường là hai dân tộc có sự tương đồng về văn hóa truyền thống,đồng thời có nhiều điểm khác biệt thú vị cho hành khách tìm hiểu.

Phòng số 2: Trưng bày và giới thiệu những tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên những thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với những sản phẩm xinh và tinh tế. Đặc thù họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo.

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam4

Phòng số 3: Trưng bày và giới thiệu văn hoá những tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn…

Phòng số 4: Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me ( Bru – Vân Kiều,Ba Na, Brâu, Chơ Ro, Co,Cơ Tu, Gié Triêng, Cơ Ho, H’rê, Kháng, Khơ Me, Xinh Mun, Mnông, Khơ Mú, Mảng,Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền -Tây Nguyên và Nam Bộ.

Đời sống thương mại chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối to, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá thế gới là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn – Khơ Me.

Phòng số 5: Trưng bày và giới thiệu văn hoá những tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Raglai,Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa,Sán Dìu, Ngái). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên những cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam5

Với trên 4.500 tài liệu hiện vật gốc, phim ảnh, 735 tài liệu khoa học trợ giúp, hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam được xây dựng theo phương pháp tiến tiến, hiện đại. Các thiết bị tin học điện tử và ứng dụng âm thanh đã tái hiện được phong cảnh cư trú và đời sống văn hoá 54 tộc người, mê hoặc công chúng tham quan.Mỗi phòng trưng bày với hệ thống tài liệu và hiện vật phong phú, đa đạng đã tái hiện một cách thức chân thực phong cảnh cư trú và đời sống văn hoá 54 dân tộc anh em,

Từ cực bắc Hà Giang đến vùng đất mũi Cà Mau với những hình ảnh gần gũi như: những phiên chợ vùng cao, cảnh săn bắt voi rừng, hình ảnh chọc lỗ bỏ hạt của những người dân tộc phía bắc, lễ hội cồng chiêng của những người Ê đê, Ba na ở Tây nguyên; sông nước của đồng bào Nam bộ; những nghề thủ công truyền thống, những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống trong trang phục, âm nhạc, ẩm thực, lễ hội trong sản xuất lao động…

Ngoài phần trưng bày cố định, mỗi năm bảo tàng tiến hành hàng chục cuộc triển lãm lưu động trên địa bàn toàn nước, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân.

Song song với những hoạt động Bảo tàng, cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị thường xuyên nghiên giúp khoa học cấp bộ, cấp viện về ngành nghề văn hoá dân tộc, nhằm phục vụ tốt công tác và nâng cao kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Sát bên đó, những hoạt động giảng dạy chuyên nghành, công tác toạ đàm, trao đổi, học tập kinh nghiệm rất được cán bộ bảo tàng quan tâm, tham dự, góp phần giới thiệu, tiếp thị những giá trị văn hoá tộc người ngày càng sâu rộng.

Bảo Tàng Văn Hóa Các Dân Tộc Việt Nam6

Hiện nay, hệ thống trưng bày ngoài trời Bảo tàng Văn hoá những dân tộc Việt Nam đã vào giai đoạn hoàn thiện. Không gian 6 vùng văn hoá: Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du – Bắc Bộ, Miền Trung – Ven biển, Trường Sơn – Tây Nguyên, và Đồng Bằng Nam Bộ đã định hình cơ bản.

Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc phong cảnh mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu những giá trị văn hoá Việt Nam tới hành khách.Tại đây, hành khách cũng dễ dàng tận mắt nhìn thấy nhiều thiết bị vốn rất quen thuộc từ xưa của dân tộc như cái cối xay lúa đan bằng nan tre, cái cày bằng cây thô sơ, những mái nhà lợp tranh, vách đất…

Có thể nói, bảo tàng văn hóa truyền thống những dân tộc Việt Nam là mái nhà chung gìn giữ những nét văn hóa truyền thống tiêu biểu, đặc sắc và mê hoặc hành khách gần xa.Chính điều đó làm dân tộc Việt Nam thêm xinh và rực rỡ.Mỗi dân tộc là một bông hoa khoe sắc trên dải đất hình chữ S, là niềm tự hào của mỗi người con Việt Nam.Và vùng đất Thái Nguyên xinh xinh chứa đựng những tiềm năng to to để phát triển du lịch.

vietnam-destinations.com | Khám phá Việt Nam

Nguồn: Sưu tầm internet.