Nội Dung [Ẩn]
- Chùa Thái lạc ở đâu?
- Lịch sử chùa Thái Lạc Hưng Yên
- Kiến trúc chùa Thái Lạc Hưng Yên
- Khám phá điểm đặc sắc chùa Thái Lạc Hưng Yên
CHÙA THÁI LẠC Ở ĐÂU?
Chùa Thái Lạc (còn gọi là chùa Pháp Vân, Pháp Vân tự hay chùa Bà Cả), thuộc xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Chùa là nơi thờ Phật và thần Pháp Vân – một trong bốn vị thần Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) có nguồn gốc ở vùng Dâu (tỉnh Bắc Ninh).
LỊCH SỬ CHÙA THÁI LẠC HƯNG YÊN
Chùa được xây dựng từ đời Lý, chùa là nơi hiếm hoi trên toàn Việt Nam còn giữ được 1 bức vì ở gian giữa thượng điện là kiến trúc từ đời Trần, ngoài chùa Thái Lạc chỉ còn thấy ở chùa Dâu và chùa Bối Khê. Bức chạm trên vì gỗ của chùa chạm hình thiên nữ Càn Thát Bà một trong Thiên Long Bát Bộ của Phật giáo.
Ngọc phả của Chùa ghi năm Đại Định thứ 2 năm 1162 đời Lý Nhân Tông.Ngọc phả ghi rõ ràng về sự kiện Tứ Pháp ở luy lâu xảy ra thời Hán Linh Đế (168-189 sau công nguyên).
Năm 1673 chùa được đại trùng tu.
Năm 1964 chùa được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia của toàn quốc và tỉnh.
KIẾN TRÚC CHÙA THÁI LẠC HƯNG YÊN
Chùa Thái Lạc được khởi dựng trên gò đất cao, mặt tiền quay theo hướng Đông Nam, có bình đồ kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc” gồm những hạng mục công trình được sắp xếp hài hòa, đăng đối tạo thành một thể thống nhất, dàn trải theo trục Tây Bắc – Đông Nam kể cả: Tam quan, sân chùa, Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu cùng khu vườn tháp.
Tam quan: xây kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cổng chính giữa được làm vượt hẳn lên so với hai cổng phụ. Trung tâm đường bờ nóc cổng cái trang trí hình tháp chín tầng. Phần mái với những đầu đao tạo tác kiểu hồi long vân cuốn, mái không rộng nhưng đều được đắp ngói ống, đường bờ nóc hình cong mui thuyền. Những cột trụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi để thể hiện đôi câu đối chữ Hán miêu tả cảnh xinh và ca ngợi uy linh của Tứ Pháp.
Tam bảo: Có kiến trúc theo kiểu chữ Công (工) gồm: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện.
Tiền đường: là công trình kiến trúc có quy mô to nhất. Bốn phía xung quanh nền tiền đường đều được bó vỉa bằng gạch chỉ, phía ngoài phủ vữa áo. Bờ nóc gắn hoa chanh, chính giữa đắp hình chữ nhật, đề ba chữ Hán “Pháp Vân tự”.
Tiền đường gồm 09 gian, kiểu tường hồi bít đốc, lợp ngói Di truyền thống. Bộ khung kết cấu kiểu bốn hàng chân cột. Hệ thống những bộ vì nóc đều được tạo tác theo kiểu “chồng rường giá chiêng”. Vì nách kiểu “ván mê” (ở ba gian giữa) và kiểu “bán chồng rường” (những gian còn lại).
Tất cả những cấu kiện kiến trúc đều làm bằng gỗ lim, những mảng chạm khắc, trang trí tại Tiền đường chùa Thái Lạc chủ yếu mang phong phương pháp và đặc trưng của thẩm mỹ và làm đẹp thời Nguyễn với nhiều đề tài trang trí khác nhau được thể hiện trên những cốn mê trên vì nách Tiền đường: đề tài tứ linh (long, ly, quy, phượng), đề tài tùng lộc, đề tài hoa văn cây cỏ. Bên trong Tiền đường bài trí một số pho tượng như Đức Ông, Thánh hiền, Hộ pháp,… cùng những bức hoành phi, câu đối và đồ thờ tự có giá trị.
Thiêu hương: còn được gọi là ống muống, nối liền Thượng điện và Tiền đường (dài 2,6m, rộng 4,2m), mặt nền thấp hơn Thượng điện, gồm 2 gian. Tường xây gạch chỉ, trát vôi vữa, mái lợp ngói mũi. Hệ thống đỡ hoành mái là những bộ vì được làm theo kiểu vì kèo đơn giản, để trơn không trang trí hoa văn. Bộ vì tiếp giáp với thượng điện được làm theo kiểu “cốn mê”, trang trí hình ảnh rồng và long mã, sản phẩm của nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX.
Thượng điện: gồm 01 gian 02 chái, nối vuông góc với tòa Thiêu hương, dài 10m x rộng 8.5m. Nền cao hơn nền hai tòa Thiêu hương và Tiền đường. Kết cấu kiểu 4 hàng chân cột, cột cái có đường kính 0,45m x cao 2,95m.
Thượng điện chùa Thái Lạc là một kho tàng “vô tiền khoáng hậu” về nghệ thuật điêu khắc kiến trúc gỗ cổ truyền của dân tộc. Nơi đây còn lưu giữ được 20 bức phù điêu gỗ cổ mang phong phương pháp thời Trần mà ở đó có những tiêu bản là duy nhất. Đặc điểm, hai bộ vì nóc gian giữa Thượng điện được tạo tác theo kiểu “giá chiêng” trong lồng lá đề chạm cảnh hai tiên nữ đầu người mình chim đang dâng hoa.
Loại hình này ở Việt Nam rất hiếm, ngoài chùa Thái Lạc chỉ còn thấy ở chùa Dâu và chùa Bối Khê. Đề tài điêu khắc trang trí tập trung chủ yếu trên những mảng cốn, ván lá đề giữa hai cột trụ trốn. Những mảng cốn ở đây đều được chạm khắc cụ thể, tỷ mỷ, chau chuốt kín hai mặt. Cốn to cao 90cm x rộng 90cm, cốn nhỏ cao 50cm x rộng 40cm thể hiện những đề tài: hình người, linh vật, hoa lá và những hoa văn.
Đề tài hình người: là một đề tài rất hiếm thấy trong điêu khắc Việt Nam thời Trần, trong đó có những mảng chạm có giá trị tiêu biểu:
+ Dàn nhạc ba người: với những nhạc công đang ngồi xếp bằng tròn trên mây, mặt nhìn hơi chếch về phía bên trái, mỗi người biểu diễn một nhạc cụ: người quý ông ngồi giữa đánh đàn tranh và hai người phụ nữ ở hai bên mang đàn tỳ bà và đàn tam.
Những người này đã mang hình thức gần gũi với lối trang phục đời thường, xiêm y nhiều lớp, khác hẳn những nhạc sỹ thiên thần (Gandharva) thời Lý về động tác, trang phục và cả bộ mặt. Mặc dù hình tượng trên vẫn gắn với Phật giáo, song khá thanh tao thoát tục, để tiếng nhạc của họ vẫn đậm màu thiên thần, trong một “không gian thánh thiện”.
+ Tiên nữ dâng hoa: di tích còn lưu giữ được khá nhiều những bức cốn cổ chạm khắc cảnh tiên nữ đầu người mình chim (Kinnara) dâng hoa với nhiều dạng thức khác nhau. Một dạng thể hiện đơn độc được chạm khắc trên những mảng cốn hình chữ nhật. Một dạng thể hiện đôi chầu vào giữa, cùng dâng hoa, được bố cục chạm nổi trong lòng chiếc lá đề.
Một dạng khác cũng thể hiện đôi song cả hai cùng hướng về một phía, thể hiện động tác dâng hoa hướng vào trung tâm. Tất cả những Kinnara được chạm khắc cân đối, có nửa trên mang thân phụ nữ, nửa dưới là chim có đuôi dài, cánh mở rộng, đầu búi tóc ngược lên đỉnh, áo bó sát người, đầu hơi nghiêng về phía sau và đôi tay kính cẩn dâng bình hoa về phía trước cúng dường mười phương chư Phật.
+ Nhạc công ngồi trên lưng chim phượng tấu nhạc: là một đề tài ở Việt Nam hiện chỉ thấy tại chùa Thái Lạc. Những nhạc công đều ngồi trên lưng chim phượng tấu nhạc, được chạm trên hai cốn to, mỗi mặt có hai nhạc công, có hình dáng, khuôn mặt, phục sức tương tự như bức chạm cảnh dàn nhạc ba người tại chùa và những tiên nữ tại chùa Dâu (Bắc Ninh). Tất cả đều ngồi quay ngang một bên, mặt nhìn thẳng chính diện. Mỗi người biểu diễn một nhạc cụ: dần tỳ bà, đàn nguyệt, đàn nhiều dây, nhị, tiêu, sáo,…
+ Hình Phỗng: trên những cột trụ trốn vì nóc Thượng điện chùa có chạm khắc những chú bé bầu bĩnh, ngộ nghĩnh, trong tư thế chân quỳ chân chống, đầu và tay đỡ đài sen, cổ đeo dây anh lạc, đôi vai mở rộng, cởi trần, bụng phệ, váy cũn cỡn, đi hài nhọn mũi,…. Đây là một trong không nhiều mẫu vật quý, hiếm mang phong phương pháp thời Trần. Những trụ trốn chạm hình phỗng có độ cao 47cm, rộng 35cm.
Đề tài linh vật:
+ Rồng: Thượng điện chùa hiện còn lưu giữ một số mảng cốn chạm rồng đặc sắc trên những xà nách. Đặc điểm, có con được sắp xếp ẩn hiện trong mây, đó là hiện tượng mây ám thân rồng trước tiên tìm được trong nghệ thuật tạo hình Việt. Hình tượng rồng tại Thượng điện chùa được thể hiện dưới hai dạng: chạm rồng thời Lý và rồng chầu lá đề thời Trần.
+ Chim thiêng: chim phượng được những nhạc sĩ thiên thần cưỡi, được tạo tác với mỏ to, dài, quặp như mỏ vẹt, hai cánh dang rộng, đuôi doãng uốn lượn hình sin cong lên đầu, hai chân to khỏe đứng trên hoa sen hay đạp lên những đám mây.
Đề tài hoa lá, vân mây: lá đề, hoa sen, vân mây, dây leo,…
Có thể khẳng định, những bức cốn cổ mang phong phương pháp thời đại nhà Trần hiện chỉ còn được lưu giữ tại Thượng điện chùa Thái Lạc.
Nghệ nhân dùng đục nẩy trên gỗ rắn, những đường nét làm thành những hình như được vẽ bằng bút. Nếu ở hình phỗng quỳ đội tòa sen, chất hội họa kết hợp dè dặt với điêu khắc, đường nét chỉ phụ họa cho mảng khối, thì đến những hình hoa dây, sóng nước, nổi trội là những hình tiên nữ, nhạc công đang biểu diễn
Nghệ nhân dân gian đã sử dụng thứ ngôn ngữ đây là đường nét, hình chạm nổi mà chất hội họa đậm hơn cả điêu khắc, nét chạm như nét vẽ, tinh sắc và thoải mái, góp phần miêu tả một phương pháp ngắn gọn xúc tích về đời sống xã hội và nghệ thuật Phật giáo nước Đại Việt lúc bấy giờ.
Ngoài ra, trải qua những tác phẩm điêu khắc này cho thấy khá rõ sự giao lưu văn hóa truyền thống, sự liên quan của văn hóa truyền thống phương Bắc, văn hóa truyền thống Nam Á vào nền thẩm mỹ và làm đẹp truyền thống dân tộc.
Nhà Tổ (Hậu đường): theo Bia đá niên hiệu Chính Hòa 24 dựng tại vườn chùa ghi rõ kích thước những cây cột cái gian giữa và vị trí của nhà Tổ hiện nay đây là vị trí của Gác chuông được dựng vào năm 1703.
Nhà Tổ gồm 7 gian, khung gỗ, vì nóc được kết cấu theo kiểu “chồng rường đấu kê”. Đây là nơi đặt ban thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, hai gian lân cận thờ Đức đệ nhị Pháp chủ Thích Tâm Tịch và những vị sư Tổ kế thế tại chùa.
Hai dãy hành lang: chạy dọc song song hai bên sườn Thượng điện và Thiêu hương, gian cuối nối với hạng mục nhà Tổ. Mỗi dãy hành lang gồm 07 gian (dài 18m x rộng 4m x cao 3,5m). Hệ thống vì nóc được làm theo kiểu “con chồng đấu kê”.
Nhà Mẫu: gồm03 gian được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, vì nóc được làm theo kiểu “con chồng đấu kê”.